Phát triển năng lượng tái tạo

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cam kết mạnh mẽ Việt Nam giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chuyển dịch năng lượng là yếu tố không thể thiếu để đạt được mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Vì vậy, cần tận dụng hết những lợi thế, tiềm năng năng lượng tái tạo để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với những sự thay đổi từng ngày, từng giờ của biến đổi khí hậu.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường cho rằng, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có lợi thế về năng lượng tái tạo nên đây chính là khu vực trọng điểm để Việt Nam có thể đạt được kết quả như Thủ tướng cam kết tại COP26.
Ông Nguyễn Đình Thọ kiến nghị Bộ Công Thương hoàn thành Quy hoạch điện VIII giúp khu vực có thể thực hiện các dự án năng lượng tái tạo bởi năm 2021 là năm bản lề để các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long phát triển quy hoạch tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thực tế, với lợi thế đường bờ biển dài, dư địa cho phát triển điện gió ngoài khơi ở Đồng bằng sông Cửu Long rất rộng mở, đặc biệt ở các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh… Tại Bạc Liêu, tỉnh đặt mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững, chọn năng lượng tái tạo (trong đó có điện gió, điện mặt trời, hydrogen…) là một trong những lĩnh vực ưu tiên phát triển hàng đầu nhằm trở thành một trong những trung tâm năng lượng sạch của quốc gia.
Theo Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Phạm Văn Thiều, tỉnh có bờ biển dài hơn 56 km, hội tụ những điều kiện tốt lý tưởng và tiềm năng để trở thành nơi phát triển điện gió. Theo quy hoạch phát triển điện gió giai đoạn đến 2020, có xét đến năm 2030, tổng công suất tiềm năng về điện gió của Bạc Liêu lên đến 3.500MW. Hiện trên địa bàn có 8 dự án điện gió đã đi vào hoạt động chính thức. Các dự án này có tổng công suất 469MW (đứng thứ 3 trên cả nước) gồm 176 trụ turbine, với tổng mức đầu tư gần 23.900 tỷ đồng. 8 dự án điện gió đã đi vào hoạt động ổn định chính thức cũng giúp tăng nguồn thu cho ngân sách của Bạc Liêu 450 tỷ đồng/năm.
Ông Phạm Văn Thiều cũng cho biết, Bạc Liêu đã đề nghị Chính phủ tạo điều kiện cho tỉnh sớm được bổ sung quy hoạch điện gió của địa phương giai đoạn đến 2025 tổng cộng 2.000 MW (gồm 500MW điện gió trên bờ và 1.500MW điện gió ngoài khơi) nhằm phát huy đúng mức tiềm năng gió của tỉnh theo quy hoạch của Bộ Công Thương. Cùng đó, Bạc Liêu cũng đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành chức năng xem xét, sớm phê duyệt quy hoạch đường dây truyền tải 500kV Bạc Liêu đi Thốt Nốt, Cần Thơ; đồng thời, chấp thuận đưa dự án đầu tư đường dây truyền tải này vào danh mục các dự án đầu tư được phê duyệt trong quy hoạch điện VIII…
Trong những năm qua, tỉnh Trà Vinh thực hiện chính sách pháp luật về phát triển năng lượng, đặc biệt về chính sách phát triển năng lượng tái tạo. Hiện nay, tỉnh có 5 nhà máy điện gió, tổng công suất là 256,8 MW (4 nhà máy đấu nối cấp 110kV và 1 nhà máy đấu nối cấp 220kV). Gần đây, Trà Vinh đã khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất hydro xanh với diện tích đất trên 20ha, tổng vốn đầu tư gần 8.000 tỷ đồng.
Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hẳn cho biết, việc sản xuất hydro xanh từ năng lượng tái tạo đã được định hướng phát triển theo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040. Trong những năm gần đây, hydro xanh được kỳ vọng là nguồn năng lượng tương lai, là chìa khóa cho chiến lược chuyển đổi năng lượng của thế giới theo xu hướng bền vững và thân thiện với môi trường, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch cũng như cắt giảm tác động của khí thải carbon.
“Việc đầu tư dự án nhà máy sản xuất hydro xanh trên địa bàn giúp tỉnh thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, trở thành một trong những trung tâm năng lượng xanh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Đây là cơ hội để Trà Vinh phát triển, khẳng định sự vươn lên theo hướng xanh và bền vững trong tương lai”, ông Lê Văn Hẳn khẳng định.
Ứng dụng khoa học công nghệ

Để tạo động lực cho chuyển đổi sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu đúng hướng và hiệu quả cao, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã coi trọng chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản mà chủ yếu là công nghệ cao và công nghệ sinh học; đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng nông sản hàng hóa, nâng khả năng cạnh tranh…
Về sản xuất lúa, Tiến sĩ Dương Hoàng Sơn (Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long) khẳng định ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong phát triển lúa gạo chất lượng cao hiện nay là điều cực kỳ quan trọng. Trong 10 năm gần, Viện đã kết hợp giữa phương pháp giữa lai tạo truyền thống với phương pháp công nghệ hiện đại (kỹ thuật sinh học phân tử, kỹ thuật di truyền, kỹ thuật nuôi cấy mô tạo biến dị soma, nuôi cấy túi phấn, đột biến phóng xạ, nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử, lập bản đồ gen, giải trình tự, chuyển nạp gen và gần đây là công nghệ chỉnh sửa gen…) cho chương trình lai tạo các giống lúa mới đa mục tiêu: ngắn ngày, năng suất, phẩm chất, kháng sâu bệnh (rầy nâu, đạo ôn, bạc lá…), chống chịu điều kiện bất lợi của môi trường (phèn, mặn, khô hạn, ngập…).
Đơn vị đã chọn tạo ra trên 160 giống lúa mới, hơn 20 quy trình được công nhận tiến bộ kỹ thuật mới; ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, ủy quyền sản xuất kinh doanh khoảng 30 giống lúa cho các doanh nghiệp và chuyển giao quyền sử dụng chung giống lúa OM cho gần 60 đơn vị là doanh nghiệp, trung tâm giống các tỉnh trong khu vực nhằm thúc đẩy việc mở rộng diện tích sản xuất lúa.
Nguồn: baotintuc.vn